Truyền thống đại đoàn kết - cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam
Đại đoàn kết dân tộc không phải là một khái niệm trừu tượng, mà đã trở thành quy luật sống còn của lịch sử Việt Nam. Nhìn lại những chặng đường đấu tranh chống giặc ngoại xâm, từ thời Hai Bà Trưng, Bà Triệu, đến các triều đại Ngô, Lý, Trần, Lê, Nguyễn, có thể thấy bài học lớn nhất rút ra là: khi nhân dân đồng lòng, đất nước vững mạnh; khi lòng dân chia rẽ, vận mệnh dân tộc bị đe dọa. Thời Trần, với tinh thần “tướng sĩ một lòng phụ tử”, “quân dân như cá với nước”, toàn dân đã ba lần chiến thắng quân Nguyên - Mông, đội quân hùng mạnh bậc nhất thế giới lúc bấy giờ. Thời Lê, sức mạnh đoàn kết được kết tinh thành bản “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên, khẳng định sức mạnh nhân nghĩa, ý chí cộng đồng là nền tảng của thắng lợi. Đặc biệt, trong thế kỷ XX, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh thần đại đoàn kết dân tộc đã trở thành nhân tố quyết định làm nên những kỳ tích lịch sử: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; Đại thắng mùa Xuân 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Những chiến công ấy là minh chứng hùng hồn cho chân lý: sức mạnh của dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
|
(Truyền thống đại đoàn kết - cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam) |
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa truyền thống ấy và nâng tầm tư tưởng chiến lược của cách mạng Việt Nam, Người nhiều lần nhấn mạnh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” (1). Với Người, đại đoàn kết không chỉ là phương tiện để giành thắng lợi, mà còn là mục tiêu lâu dài, là giá trị cốt lõi phải được bảo tồn và phát triển. Người chủ trương đoàn kết mọi lực lượng: công - nông - trí thức, đồng bào các dân tộc thiểu số, các tôn giáo, kiều bào ở nước ngoài, thậm chí cả những người từng có sự khác biệt về chính kiến, miễn là cùng hướng đến mục tiêu độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Đây là tư tưởng nhân văn sâu sắc, đồng thời cũng là nghệ thuật chính trị kiệt xuất trong việc quy tụ, phát huy sức mạnh dân tộc.
Quán triệt tư tưởng của Người, Đảng ta luôn xác định đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Các văn kiện Đại hội Đảng qua các thời kỳ đều nhấn mạnh yêu cầu củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy nhân dân làm trung tâm, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Hiến pháp và pháp luật luôn khẳng định quyền làm chủ của nhân dân, coi đó là nền tảng của sự đồng thuận xã hội. Có thể khẳng định rằng, trong mọi chặng đường lịch sử, đại đoàn kết dân tộc luôn là cội nguồn sức mạnh và là “bí quyết thành công” của cách mạng Việt Nam.
Từ truyền thống đến khát vọng hiện thực hóa mục tiêu Việt Nam hùng cường
Bước vào thời kỳ đổi mới từ năm 1986, đất nước đứng trước nhiều khó khăn, thử thách, thành công của công cuộc đổi mới, xét đến cùng, cũng bắt nguồn từ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Đó là sự đồng thuận trong Đảng và toàn xã hội về mục tiêu đổi mới, là sự kết hợp hài hòa lợi ích giữa các thành phần kinh tế, giữa Nhà nước, doanh nghiệp, nông dân và trí thức. Đó cũng là sự đoàn kết trong cộng đồng dân tộc, gắn kết lợi ích của các vùng miền, tôn trọng sự đa dạng văn hóa. Trong đối ngoại, Việt Nam đã phát huy tinh thần đoàn kết với khu vực và quốc tế, trở thành bạn bè, đối tác tin cậy, thành viên tích và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Nhờ đó, đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng, đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Ngày nay, đại đoàn kết dân tộc không chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, mà còn mở rộng tới cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Đây là nguồn lực quan trọng cả về trí tuệ, tài chính và đặc biệt là sức mạnh mềm trong việc quảng bá hình ảnh đất nước, hội nhập vào đời sống quốc tế. Kết nối và phát huy sức mạnh kiều bào trở thành một bộ phận không thể tách rời trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc, nhằm tạo ra sự cộng hưởng to lớn trong hành trình hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường.
|
(Khối đại diện 54 dân tộc Việt Nam tham gia diễu hành tại A80 - Biểu tượng cho tinh thần đoàn kết, thống nhất và sức mạnh của toàn thể dân tộc Việt Nam) |
Đại hội XIII của Đảng đã đề ra mục tiêu: “Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, Việt Nam phấn đấu trở thành nước phát triển, có thu nhập cao” (2), đây là khát vọng vĩ đại, phản ánh ý chí của toàn dân tộc. Để biến khát vọng ấy thành hiện thực, phải phát huy cao độ khối đại đoàn kết dân tộc. Điều đó đòi hỏi sự gắn kết toàn diện: giữa các giai tầng xã hội, giữa Nhà nước và nhân dân, giữa trong nước và ngoài nước. Khát vọng hùng cường không chỉ là nhiệm vụ của riêng một lực lượng nào, mà là trách nhiệm và sứ mệnh của cả dân tộc. Đại đoàn kết trong giai đoạn mới cần được thể hiện bằng những hành động cụ thể: tạo dựng môi trường phát triển công bằng, nơi mọi người đều có cơ hội đóng góp và thụ hưởng thành quả; khuyến khích, khơi dậy tinh thần sáng tạo, đổi mới của từng cá nhân và cộng đồng; xây dựng hệ thống chính sách khuyến khích nhân tài, trí thức, doanh nghiệp, nông dân, thanh niên cùng tham gia vào sự nghiệp phát triển đất nước. Bên cạnh đó, cần phát huy sức mạnh của cộng đồng người Việt ở nước ngoài, để họ trở thành “nguồn vốn xã hội” quan trọng góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh.
|
(Thành phố Hồ Chí Minh sau gần 40 năm đổi mới) |
Tuy nhiên, bên cạnh thời cơ, đất nước cũng đối diện với nhiều thách thức. Toàn cầu hóa mang đến sự cạnh tranh gay gắt, sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt, các giá trị truyền thống bị tác động bởi lối sống thực dụng, cá nhân chủ nghĩa. Mặt khác, các thế lực thù địch không ngừng lợi dụng những vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Trong bối cảnh mạng xã hội bùng nổ, những thông tin xấu độc có thể lan truyền nhanh chóng, tác động tiêu cực đến niềm tin xã hội. Đây là những nguy cơ hiện hữu có thể làm xói mòn nền tảng đoàn kết nếu không được xử lý kịp thời và khéo léo.
Trước những thách thức đó, nhiệm vụ đặt ra là phải tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc bằng những giải pháp đồng bộ, thiết thực. Trước hết, cần xây dựng niềm tin xã hội thông qua việc bảo đảm phát triển kinh tế bền vững, công bằng, nâng cao đời sống nhân dân, để nhân dân thấy rõ lợi ích của mình gắn liền với lợi ích của quốc gia. Đồng thời, phải phát huy dân chủ, lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân thực sự làm chủ. Song song với đó, cần tôn vinh và phát huy giá trị văn hóa dân tộc, lấy tinh thần nhân nghĩa, nhân ái, khoan dung làm nền tảng gắn kết cộng đồng. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác kịp thời và hiệu quả các luận điệu sai trái, thù địch. Đoàn kết không chỉ ở hành động, mà còn ở sự thống nhất tư tưởng, niềm tin và lý tưởng phát triển đất nước. Do đó, việc giáo dục, bồi dưỡng lòng yêu nước, ý thức công dân, trách nhiệm xã hội, đặc biệt là cho thế hệ trẻ, có ý nghĩa quyết định đối với việc củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Từ truyền thống ngàn đời, đại đoàn kết dân tộc đã chứng minh là cội nguồn sức mạnh đưa dân tộc Việt Nam vượt qua mọi thử thách để giành độc lập và phát triển. Trong thời đại mới, truyền thống ấy tiếp tục là nền tảng vững chắc để hiện thực hóa khát vọng một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, hạnh phúc. Khát vọng ấy không chỉ là lý tưởng chính trị, mà đã trở thành nhu cầu tự thân, là sự đồng lòng của hơn 100 triệu con dân đất Việt. Khi truyền thống đoàn kết được phát huy ở tầm cao mới trong tư duy, trong hành động, trong sự đồng thuận và sáng tạo, dân tộc Việt Nam chắc chắn sẽ viết tiếp những trang sử vàng, đưa đất nước tiến nhanh, tiến vững chắc vào kỷ nguyên mới, sánh vai cùng các cường quốc năm châu./.
Tài liệu tham khảo
(1) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 13, tr.119.
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập I, tr.217 - 218.